Việt Nam hoàn toàn có thể thanh toán ung thư cổ tử cung (UTCTC) trong 30 năm tới nếu tiêm chủng HPV được triển khai cho 90% trẻ em gái vị thành niên; 70% phụ nữ được khám sàng lọc ung thư cổ tử cung; và 90% phụ nữ bị tiền ung thư hoặc đang bị UTCTC được điều trị đầy đủ.
Ung thư cổ tử cung hiện là vấn đề sức khỏe cộng đồng đáng quan ngại vì gây ảnh hưởng đến phúc lợi, sức khỏe, đời sống tinh thần của phụ nữ và toàn bộ dân số. Nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung là do nhiễm virus HPV (một loại virus gây u nhú ở người - Human Papillomavirus).
Theo một báo cáo của UNFPA và Hội đồng Ung thư New South Wales thực hiện năm 2020 cho thấy, ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến thứ sáu tại Việt Nam, với 4.177 ca mắc mới và 2.420 ca tử vong trong năm 2018. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tỷ lệ tiêm vaccine HPV và tỷ lệ khám sàng lọc ung thư cổ tử cung còn thấp. Nghiên cứu năm 2021 cho thấy, chỉ 12% phụ nữ, trẻ em gái trong độ tuổi 15-29 được tiêm vaccine HPV và chỉ 28% phụ nữ trong độ tuổi 30-49 được khám sàng lọc ung thư.
Nghiên cứu về hiệu quả đầu tư tiêm chủng HPV tại Việt Nam trình bày 13 kịch bản khác nhau về tiêm chủng HPV, sàng lọc và điều trị ung thư cổ tử cung, dựa trên các dữ liệu được xác thực, phân tích về hiệu quả chi phí, lợi ích kinh tế xã hội từ tiêm vaccine và tiến độ thanh toán căn bệnh này.
Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy, nếu việc tiêm chủng HPV được triển khai cho 90% trẻ em gái vị thành niên; 70% phụ nữ được khám sàng lọc ung thư cổ tử cung; 90% phụ nữ bị tiền ung thư hoặc đang bị ung thư cổ tử cung được sự điều trị đầy đủ, Việt Nam có thể ngăn ngừa 286.006 trường hợp ung thư và 301.846 ca tử vong do ung thư vào năm 2100; đồng thời, có thể thanh toán ung thư cổ tử cung vào năm 2055, sớm hơn 29 năm so với chỉ tiêm vaccine HPV cho nữ giới.
Nghiên cứu cũng ước tính rằng với 1 USD đầu tư vào các chương trình ngăn ngừa ung thư cổ tử cung có thể mang lại lợi ích kinh tế tương đương từ 5 - 11 USD, và số tiền này tăng lên vào khoảng từ 8 - 20 USD nếu kết hợp lợi ích kinh tế và xã hội.
Các phát hiện chính của nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng vững chắc hỗ trợ nỗ lực của Bộ Y tế Việt Nam và các cơ quan trong việc nhân rộng chương trình tiêm chủng HPV, khám sàng lọc và điều trị ung thư cổ tử cung tại Việt Nam. Nghiên cứu cũng tạo tiền đề xây dựng các chính sách cấp quốc gia và địa phương nhằm triển khai hiệu quả các biện pháp can thiệp toàn diện hướng đến loại bỏ hoàn toàn căn bệnh này ở phụ nữ Việt Nam.
Bà Naomi Kitahara, Trưởng Đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam nhấn mạnh: "Chúng tôi tin rằng các bằng chứng xác thực được đưa ra trong sự kiện hôm nay sẽ là tín hiệu cho các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia y tế, tổ chức xã hội dân sự, những nhà nghiên cứu và đối tác phát triển ủng hộ, triển khai thực hiện các kế hoạch phòng, chống ung thư cổ tử cung, đồng thời thúc đẩy nỗ lực hướng tới một tương lai không còn căn bệnh ung thư cổ tử cung tại Việt Nam. UNFPA cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam triển khai thực hiện tiêm chủng HPV tại Việt Nam".
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Dương Thị Hồng, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Bộ Y tế chia sẻ, hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho các bệnh do nhiễm HPV gây nên, do đó bệnh thường diễn biến dai dẳng, dẫn tới ung thư cổ tử cung, chi phí điều trị hết sức tốn kém. Vaccine HPV vẫn chưa được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, người dân vẫn đang phải tự chi trả chi phí tiêm vaccine nếu có nhu cầu. Chi phí cho mỗi mũi tiêm khoảng 1,8 - 3 triệu đồng.
Thời gian qua, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 104/NQ-CP về lộ trình tăng số lượng vaccine trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng giai đoạn 2021 - 2030. Theo đó vaccine HPV sẽ được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng từ năm 2026.
Đồng thời, trong Nghị quyết, Chính phủ cũng cho phép các địa phương tự bố trí được kinh phí thì có thể triển khai sớm hơn cho người dân. Do đó, các địa phương hoàn toàn có cơ sở pháp lý để sớm đưa vaccine HPV vào chương trình tiêm chủng mở rộng của địa phương, giúp giảm gánh nặng bệnh tật nguy hiểm cho trẻ em.
Với mục tiêu thanh toán căn bệnh ung thư cổ tử cung, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi tất cả các quốc gia trên thế giới có các biện pháp cụ thể để đảm bảo 90% trẻ em gái trước 15 tuổi được tiêm chủng HPV, 70% phụ nữ trước 35 tuổi được khám sàng lọc ung thư cổ tử cung sử dụng các hình thức xét nghiệm với độ chính xác cao và được tái xét nghiệm trước 45 tuổi. Đến năm 2030, đảm bảo 90% phụ nữ được phát hiện tiền ung thư và 90% phụ nữ đã bị ung thư xâm lấn, được chữa trị.