
Theo thống kê của Bộ Y tế, riêng năm 2020, tỷ lệ thừa cân béo phì (TCBP) khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%; Theo kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ trẻ em TCBP tăng gấp 2,2 lần, từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020. Mặc dù Việt Nam có tốc độ tăng nhanh về số người béo phì trong thời gian gần đây nhưng xét về tỷ lệ dân số thì số người TCBP ở Việt Nam vẫn thấp nhất so với khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Số liệu từ Liên đoàn béo phì thế giới năm 2022, tỉ lệ TCBP người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 200 và trẻ em đứng thứ 137. Tại khu vực Đông Nam Á, tỉ lệ TCBP ở người trưởng thành tại Việt Nam, đứng thứ 11 Trẻ em đứng thứ 8. Số liệu này cho thấy, tỉ lệ TCBP tại Việt Nam còn thấp, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn cao.
Các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng thừa cân béo phì (TCBP) do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm: Chế độ dinh dưỡng không hợp lý, không chỉ đên từ việc tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; (Thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; Các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa TCBP với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ v.v..
Các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ TCBP. Cụ thể, Báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia về tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn, tần suất và thói quen sử dụng thực phẩm của học sinh tiến hành năm 2018 cho thấy tỷ lệ TCBP ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Trong khi đó, ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng TCBP ở lứa tuổi học đường. Cũng theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng nêu trên, trẻ em khu vực thành thị có tỷ lệ TCBP cao hơn trẻ em khu vực nông thôn thì cũng là nhóm có hoạt động thể lực (HĐTL) ít hơn trẻ em khu vực nông thôn. Nghiên cứu SEANUTS do Viện Dinh dưỡng tham gia thực hiện năm 2011 cũng chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ em từ 6-11 tuổi ở khu vực thành thị đạt mức khuyến nghị về hoạt động thể lực chỉ là 32,5% trong khi tỷ lệ này ở nông thôn là 59,9%. Thời gian tĩnh tại trong ngày của lứa tuổi học sinh chủ yếu là dành cho mạng xã hội (95,9%); game, máy tính, điện thoại (76,3%); làm máy tính (60,2%).
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến TCBP mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung cũng chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%).
Nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calorie duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt nên nếu ngoài các sản phẩm này thì người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ đường và calorie với hàm lượng cao hơn từ các sản phẩm khác. Nếu so sánh về mức calories cung cấp giữa các loại thực phẩm thì lượng calo cung cấp từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g) là thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường. Theo kết quả khảo sát từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia nêu trên, tỷ lệ học sinh tiêu thụ các sản phẩm có đường khác như bánh kẹo, kem, chè chiếm 51,1% ở khu vực thành thị và 56,4% ở khu vực nông thôn, cao hơn rất nhiều so với nước ngọt (21,6% ở khu vực nông thôn và 16,1% ở khu vực thành thị) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Bên cạnh đó, khảo sát về thói quen chọn lựa nước uống của người tiêu dùng thực hiện năm 2018 của Decision Lab thì nếu áp thuế lên nước giải khát thì sẽ có 49% người tiêu dùng chuyển sang dùng các sản phẩm thay thế là nước uống chế biến tại chỗ có đường, đây là nguồn đồ uống khó kiểm soát về chất lượng và hàm lượng đường và khả năng thu thuế của cơ quan nhà nước từ các nguồn này là không khả thi.
Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Tài chính, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Báo cáo của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tức là tương đương với khoảng 34 lít/người/năm nếu tính trên số dân là 96 triệu người vào năm 2020. Như vậy, theo số liệu của hai cơ quan trên thì mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 có chiều hướng giảm. So với nhiều quốc gia và khu vực, mức độ tiêu thụ này là khá thấp.
Từ các dẫn chứng trên, có thể thấy rằng việc đưa nước giải khát có đường vào diện chịu thuế TTĐB là chưa thực sự có cơ sở khoa học vững chắc, cũng như chưa chứng minh được hiệu quả kiểm soát TCBP, tiểu đường. Chính sách thuế, nếu không được xây dựng dựa trên bằng chứng xác đáng, có thể gây tác dụng ngược, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng và doanh nghiệp trong nước.
An Nhiên